Phạm Thiên Thư

Qua Suối Mây Hồng - phụ lục

NGÃ PHÁP MÂY NỔI
Tôi đang ngồi trên một chiếc ghế, một chiếc bàn viết gỗ nâu đặt ngay khung cửa sổ nhìn xuống khu đất cỏ xanh nằm xuôi hai bên con sông đọng nước tịch mịch. Khung cửa này là lối ngõ của hoàng hôn, của trăng sao, hoa cỏ và cả những tiếng chim lạnh buốt hắt vào tâm thức tôi mỗi chiều. Tất cả thế giới đó kết lại làm huyết bào nuôi dưỡng khí chất, nuôi dưỡng mảnh thân thể hiu hắt, rừng núi của những dù nấm hóa thân làm tinh tú mỗi đêm. Tôi , nuôi dưỡng tạo vật trong mình, cưu mang tất cả nhật nguyệt mất máu ... Tôi tựu thành con xoáy khủng khiếp của vô lượng hành tinh lấp lánh trong dòng ngân hà xa xăm. Tôi là một kết hợp dồn nén của tinh lực vũ trụ, của những dải mây huyền bí nhất, những mạch nguồn sâu thẳm nhất như bầy ngựa xanh chuyển vó, như ngàn ngàn con sông mang hoa lá dồn về. Tôi là đại dương nơi bão gío hát ca, nơi tụ đọng lớn lao của nước mắt loài người.
Những ống máu trong tôi cuồng nộ như trăm ngàn dòng Hồng Hà mang cát đỏ nuôi dưỡng hình hài.
Trái tim tôi: Một nửa là cao nguyên Tây Tạng, nơi nghi ngút tuyết bay, nơi tím ngắt mặt trời, và một nửa là vực sâu của đại dương. Mỗi nhịp đập là lãng đãng mây bay, là gầm gừ biển lớn, là muốn xô nghiêng cánh cửa Âm, Dương, là vẫy gọi mặt trăng đầu thai vào mặt trời để trần gian chìm toàn thể trong bóng tối thân mật, vắng vẻ, vĩnh cửu của mọi nhãn pháp so đo.
Bây giờ thỏi nến vàng ệch lù mù trước mặt, chỉ đủ sức quyến rũ những con dế lang thang, những cánh bướm bỏ sương mù vào sưởi ấm. Tôi rất quý những bạn láng giềng này, những khúc ca, những cuộc chơi rong trọn kiếp, mà không bao giờ tìm thấy giữa loài người. Tất cả mọi tiếng ca chỉ còn lại trong tiếng rú thống thiết của ý thức thất bại. Tất cả mọi bước chân rong ruổi là những bước chạy trốn tù ngục tự thân. Cũng dưới ngọn lửa này, những trang kinh càng trở nên héo úa, những trang giấy nghi ngút tà dương. Mỗi phiến giấy thơm trở nên một chiếc lá khô xào xạc, những chiếc lá cuối mùa của một cồn rừng gìa thâm u vắng vẻ. Những nét chữ cổ hiện thân từng đốt xương mục, từng nghành củi đeo đét thì thào, từng cỗ xương chim rã nát, từng mảnh sỏi vô hồn ... Tất cả chỉ còn là bèo bọt lênh đênh trên cơn hồng thủy ý niệm dâng ào ạt trong tôi. Tôi hú gọi mật nghĩa về nhập xác. Tôi chuyển tinh năng vào từng ngữ ngôn hồi sinh. Tôi kết tinh tú lại làm dòng kinh thơ nhật nguyệt. Tất cả bừng sáng trên một tâm địa huy hoàng. Mỗi dòng kinh Kim Cương là một suối tóc biêng biếc hiu hiu, là sợi mưa thu lãng đãng, là một lấm chấm hoa đào, là sợi hương thơm tan loãng từng mây, là dế đá ngủ giữa mặt trăng và đàn ca não nuột, là Nhị tướng giao nhau đẻ ngược ra Đấng vô cùng. Tôi gọi hồn thiên thu nhập với gang tay. Tôi chiêu vía vô cùng hiện giữa sương bụi. Tôi đốt xác hoàng hôn làm triêu dương mở mắt.
Mỗi dòng kinh thơ, là một mạch máu. Mỗi mạch máu là dòng tinh khí mặt trời, là một hơi thở bão tố. Tôi thở bằng kinh thơ, cưu mang từng túi phổi. Tôi đâm nổ ý thức tôi cho những dòng kinh vọt ra như vô vàn cây mống trời. Nút xoáy tinh lực không còn, tôi vỡ tung như trăm ngàn mảnh mây hào quang kiêu ngạo vỗ cánh vào vũ trụ. Mỗi chữ, mỗi nét mực xanh là mỗi cô đọng tinh lực vũ trụ. Sức mạnh của một biển cả thu gọn trong nét chữ bùa chú ngàn cân dưới cán bút ấn quyết xẻ núi. Tôi chỉ còn là kết hợp tạm bợ của sa mạc ý niệm, nằm chờ tiếng réo huyền bí của gío rừng tóc vô lượng dòng kinh. Tôi còn vô lượng chiếc kén tơ của con tằm đang mọc cánh thoát hình vỗ cánh ra đi làm trăng sao vằng vặc.
Bây giờ đúng ba giờ đêm. Mỗi vị sư là mỗi thế giới tịch mịch, mà mỗi gian phòng là những cảnh giới vũ trụ riêng biệt. Quí thầy ngủ yên ấm như một bóng trăng hiền từ trong giọt sương. Chỉ còn tôi và dòng sông dưới kia vẫn tỉnh thức cô quạnh. Tôi phải thức với dòng sông, thức vĩnh cửu cho dòng sông chảy mãi, tôi chợt bâng khuâng trước một bóng bóng dáng trên tường. Không đó chỉ là chân dung của tổ Bồ-Đề vác thuyền trượng khai thị trên vai, treo chiếc giầy cỏ vi mạt vô minh như một chấm than chênh vênh cuối cùng; chiếc giầy duy nhất đạp lên Nhị tướng để lìa cả sự ra đi. Trở về và ra đi cũng chỉ là sự gỉa danh, chỉ sự lênh đênh của cuộn mây trắng. Trở về chỉ là sự ra đi trùng sinh, sự ra đi nhập diệu, vì hoàng hôn bên này là triêu dương bên nọ, cũng như lá cờ vĩnh cửu chỉ tung bay trong nhận thức, dòng sông chỉ chuyển dịch trong huyết mạch, bia mộ chỉ là bia mộ của ảo tưởng thường tại; ảo tưởng này là biến chứng của tâm bệnh tham chấp và mê loạn.
Sự chết không phải là sự trở về mà là sự ra đi đột biến, sự vượt cầu vào mây khói. Cây cầu lửng như là dấu nối ngắn ngủi giữa hai đầu của sự vô cùng - là một ảo giác hiện nổi lên giữa vô cùng tím ngắt cỏ hoa. Cỏ hoa là hiện thân của vô cùng vi diệu. Kẻ yêu cỏ hoa là kẻ đi vào vô cùng. Tình yêu là chân tướng của vô cùng - chim non trong hốc cây - Mẹ dậy tiếng hót trìu mến - Ngụ từ bất tuyệt thiên thu. Ngụ từ là liếc mắt mầu nhiệm. Ngụ từ là ngọn tóc bâng khuâng. Ngụ từ là tiếng em nước suối. Ngụ từ là tiếng bồ câu gù nhau trong hốc cây. Ngụ từ là con chim nho nhỏ tha cỏ lên cành. Ngụ từ là câu hỏi vu vơ: Sao em áo xanh đã vàng lệ đợi. Ngụ từ là muôn về trong một. Ngụ từ là ngôn ngữ tinh nguyên. Ngụ từ là nụ cười mầu nhiệm. Ngụ từ là ẩn tích của ngôn ngữ. Ngụ từ là ngụ từ.
Kẻ lữ thứ qua cầu, muốn mau qua cầu như một cơn mưa thu, vì đường còn xa, còn bao nhiêu núi cao mây trắng cám dỗ, còn bao nhiêu cồn hoa suối mát đợi chờ, rồi đến một thị trấn nào đó ít lâu lại làm lại cuộc ra đi. Vì máu huyết thường hằng sôi động ra đi. Tôi rất thèm những chuyến xe chợ xọc xạch, vừa mang tôi đi, vừa dằn vặt tôi, cũng như tôi vừa ra đi vừa dằn vặt mình trọn kiếp. Tôi chán ngán hết mọi tỉnh lị. Tôi thèm một chỗ ngồi bên cửa xe, hút một cối thuốc, nhìn lên cây cao lãng đãng sương dài theo cỗ xe dong duổi tìm kiếm mảnh mặt trời vàng cuối núi. Tôi chỉ thèm chuyển dịch. Khinh thị những phố núi, đèo mây, những viện rượu ven rừng ngừng nghỉ. Nhổ nước bọt vào những ga mưa, chợ phố, những hang hốc cư ngụ. Tôi sống trọn vẹn bằng máu huyết ca hát lên đường. Chỉ có ra đi mới giải thoát. Giải thoát sự giải thoát mới giải thoát. Ra đi là bản chất của dịch hóa vũ trụ. sự ra đi cuối cùng, sự ra đi tột đỉnh là ra đi của sự ra đi, ra đi trong nỗi không tịch sấm sét.
Một chiều, có lẽ vào một mùa hạ thật xa, ngày ấy như một cánh chim biếc đã rụng xuống ven núi rũ xương. Tôi cắp tấm nhựa về một ruộng lúa ngoại ô, nằm hút thuốc nhìn trời, việc nhìn trời cao đối với tôi cũng cần thiết như đóa hoa, sách quý, trông cây và như hai bữa cơm rau thanh đạm. Tôi chợt thích thú đón xe đi Vũng Tầu và tìm được chuyến xe cuối ngày lưa thưa hành khách. Thế rồi cỗ xe chợ gìa cũng vừa kịp thả tôi xuống thành phố cùng với vừng sao đêm chi chít trên bãi biển. Tôi vời khung xe gỗ ngựa chất đầy bóng tối về phía bãi sau. Vó ngựa lọc cọc rơi mưa trên con đường cheo leo lưng núi. Tôi bỏ xuống chọn một quán ăn có cây đèn gío vàng ệch trên tường. Gọi một phần ăn, một ly rượu nâu đậm, một phin cà phê rồi ngả lưng nhồi cối thuốc hút nhìn biển. Biển đêm trở thành cây dương cầm gỗ huyền hoặc. Những ngọn sóng rì rào trong hốc đá, những ngọn gío hú vi vu cuồn cuộn chung quanh. Những bờ cây nào rũ tóc. Những đỉnh non nào le lói trăng sao. Biển chỉ còn những tiếng khóc, những tiếng thổn thức, tiếng nấc nghẹn thống thiết, tiếng nguyền rủa thì thầm, tiếng hát ca man rợ. Biển là hiện thân của sự đau khổ chất chứa; nơi tụ đọng tất cả nước mắt loài người và trùng thú. Biển là dấu chấm hết vĩ đại nhất của thiên thu, cũng như giếng mắt huyền nhiệm của xử nữ, nơi vắng bặt sau cùng của mọi bản anh hùng ca chuyển núi. Biển là nước mắt kết thành tiếng khóc, tiếng khóc tự kết thành nước mắt. Nước mắt tự vỡ ra âm thanh não nuột. Biển là vũng máu thiên thu, vũng máu vô ngàn năm tím ngắt. Biển là giọt máu duy nhất còn lại, chứng tích của cuộc ám hại, sau khi tên sát nhân vĩnh cửu xa bay. Biển là cỗ trống đồng meo mốc thúc giục mây xám lên đường. Biển thường xuyên tung tín điều cho loài người man rợ. Biển quyến rũ máu huyết hát ca. Biển là thông điệp thăm thẳm của thông điệp và sấm dậy; vắng vẻ ghê rợn và bùng nổ kinh hoàng. Hỡi con nước bất mãn kia. Ta vứt xuống ngươi một cọng râu khinh thị. Hỡi dấu chấm câu hun hút kia. Ngươi nhỏ xuống lưng chúng đời sống như một dòng văn ngô nghê. Hỡi thông điệp mê hoặc kia. Ngươi chỉ cần thiết cho những ngọn núi rầu rĩ. Hỡi thủy huyệt huyên náo kia, hãy trả mây trắng hồi sinh, hỡi bầy ngựa thiên thu kia. Hãy hò hét lên đường. Hỡi trùng dương sương muối kia hãy đổ xuống nụ cười thêm mặn.
Tôi ngạo nghễ đứng lên trong những cử chỉ và khuôn mặt thật thô, bỏ xuống bãi cát theo dấu chân một suối tóc thủy quái về cuối bãi. Thân lau sậy đó đã mất hút từ khi cây đèn bão vàng ệch tắt phụt trên cột quán lần thứ nhứt, cũng như viền trăng lúc đó mất hút trong cơn mây đen ào bay. Một con chim nào mất dấu trên bầu trời, một tiếng chim nào chết đuối trên biển động. Dấu chân thứ nhất. Dấu chân thứ hai. Dấu chân thứ ba. Dấu chân thứ tư. Dấu chân thứ năm, thứ saú.... Dòng chân hiện ra cùng với mảnh trăng trên bãi cát, tôi gián tâm thức vào cuộc truy tầm dấu tích. Dòng chân hút dài về cuối bãi. Tôi mãi theo và phát hiện thêm một dòng chân đậm hơn ngược chiều. Những dấu chân đực cái giao nhau chần chừ, rồi trở thành những xoáy cát sâu hoẳm. Tôi ngồi xuống nhìn đôi chân mình, đôi chân như hình ảnh cuộc sống, những dấu chân, những biểu tượng rơi rớt quẩn quanh. Hồi nhỏ, trước mỗi lần chui vào tấm phản gỗ hoàng tâm, đặt sau lưng khung cửa đất nhìn ra những tháp núi un sương ảo nghiệm, nghe tiếng dế gáy bùi tai, nằm thở hiu hắt với mảnh nguyệt đầu giường, mẹ tôi lại đem soi chân ra ánh trăng, nếu còn cát bụi là bế tôi ra con suối nhỏ đầu nhà, đem khỏa chân con xuống dòng nước róc rách, cho cát bụi xuôi theo con suối với sao đêm. Có lẽ từ những ngày mất hút đó cùng với ánh trăng nơi trang trại Đá Trắng; một cõi sương khói tít mù. Tôi đã lớn lên và đã bao lần rửa chân mà thật ra chưa một lần nào sạch cát: cát hồng, cát tía, cát xanh, cát bẩn tưởi, cát hào quang ... tất cả mọi thứ bám đầy chân và lấp dần huyết mạch, đóng sạn trong tim, tụ lại nếp óc làm nên sa mạc, một thứ sa mạc đầy bão nổi và xương ngựa khô. Tôi đã gián bao nhiêu dấu chân trên mảnh đất này. Những dấu chân thèm đất, hút nhựa sống từ lòng đất nuôi dưỡng tâm linh, chuyển vào đất những thất bại tức tưởi, gõ trên đất những âm động lao xao. Dấu chân đuổi theo những dấu chân. Dấu chân chạy trốn những dấu chân. Dấu chân khoan thai phỉnh gạt. Dấu chân sợ hãi chù chừ. Mỗi bàn chân là một ngọn cây cằn cỗi, một loại hoa xương rồng ngát hương. Mỗi ngón chân là một nụ sinh lực hồng hào, là một nhành hoa ngà ngọc. Mỗi người là một thân cây mọc ngược; gốc từ không trung, hấp thụ thanh khí nhật nguyệt, tinh chất cỏ hoa máu huyết biển núi. Mười nhành rễ chim bay, hút mật hoa hồng, uống suối ngọc thạch, hứng nhụy thông cao, mang thể chất vũ trụ vào sinh trưởng.
Tất cả mọi con đường đều hình thành bằng những dấu chân. Những dấu chân ngàn xưa còn nạm đá cẩm tỏa sáng. Nhũ+ng dấu chân hôm nay đặt lên con đường rêu phong đó; những phiến đá kết tinh nô lệ, những dấu chân hôm nay ra đi chẳng tự tại chút nào, dù mỗi người đều có ý thức rằng mình tự do một cách tù túng, mơ ước tự do một cách nô lệ.
Những dấu chân mờ dần trên bãi biển, rồi vô tăm tích dưới những đợt sóng đen tối. Cơn thủy triều đã dậy như một hàng dừa xanh. Dòng chân trên cát biển bây giờ hiện rõ trong tôi như một dòng mực, như những nét chữ kỳ diệu của trang kinh Kim Cương. Tất cả mọi con đường, mọi ước vọng, mọi vóc dáng, mọi khuôn diện chợt vắng lặng trong tôi như một con chim bay tấp vào cơn mây đen, như một lòng suối cát biếc không vẩn gợn mây đục, như giọt nước ôm trọn vầng trăng. Trong giếng khơi thanh tịnh đó chợt hiện lên một bông hoa tím ngắt, nhỏ như đầu kim, một đóm hoa rơi, một chấm hoa mùa thu của ký ức. Không đó chỉ là một bọt nước nổi lên, phản ảnh chùm sao ly ti, chùm Bắc đẩu le lói biến hiện.
Tôi chợt khinh thị tất cả tư tưởng, phẫn nộ với tất cả vách đá chiếm hữu mặt trời, độc quyền mặt trăng, ăn cắp tinh tú nghìn xưa, đè nặng bóng tối huyền nghĩa xuống tâm thức con người. Tôi muốn chẻ tất cả tượng gỗ xuống nhóm lại bếp lửa nhân gian cho mọi sự sống hò reo lên đường, cho nghìn suối mang hoa xuống non, cho trăm sông mang máu hồng về biển, cho trùng dương thả mây trắng phiêu bồng, cho rừng già thố lộ với núi cỏ, cho sỏi đá tình tự với chim muông, cho tinh tú nhào vào mạch máu, cho em hong tà dương từng ngọn tóc, cho anh vợi hoàng hôn trong mắt xanh, cho mùa đông cất cánh, cho thung lũng thay mầu, cho xuân thu đổi áo, cho tất cả chiến tranh, tất cả hình thái phơi sương nhòa lệ thực sự vắng lặng nơi mỗi người. Mặt trời phải sống dậy nơi mỗi người. Mặt trời không còn là xác chết, không là vụn đá, không là sa mạc ứ đọng huyết mạch. Mặt trời trùng sinh. Mọi con đường nổ tung. Mọi dấu chân tỉnh thức. Mọi bàn tay mọc cánh thăng hoa. Tôi đọc được mật nghĩa từ một dòng chân mất hút trên bãi biển.
Tôi đứng dậy bâng khuâng, và trọn đêm bới cát, đắp mũi tên vàng từ bờ xa cắm phập xuống biển xanh.
Sáng hôm sau tôi từ bãi biển thức dậy với mặt trời. Một con chim xanh đậu trên đầu mũi tên như một cầu lửng cát vàng bắc xuống biển. Con chim ca hát hiu hiu, rồi lao cánh mất hút trên sóng biếc như một mũi tên bích ngọc. Tôi tiểu tiện vào biển và nhặt một vỏ sò trắng, ôm giọt nước xanh trong kẹt đá với mặt trời rực rỡ ly ti. Tôi bỏ lên, tìm vào quán ăn rồi đáp xe về tỉnh.
Qua một kiếp sống nổi nêng, mỗi người đã vượt qua bao nhiêu cây cầu; một cây cầu trúc vàng, một cây cầu đá xám, một cây cầu tre La Ngà, một cây cầu ván thiên, một cây cầu sắt rỉ ... Bao nhiêu con cầu dựng lên để tiếp nối những dòng chân, những bước đi không bao giờ ngừng nghỉ, vì tư tưởng là ra đi, ra đi từ bản chất, ra đi trên những dấu chân, trên những nẻo đường ảo tưởng, những lối quạnh tàn trăng. Giấc mơ cũng là sự ra đi, ra đi trong dấu chân hoài niệm và thao thức. Chỉ có giấc ngủ say, giấc ngủ mệt thiếp, giấc ngủ chết lịm, giấc ngủ của Đạo gia, giấc ngủ của kẻ đau nhừ thất bại, và hoan hỷ trong sự thành công mĩ mãn nhất, tột đỉnh nhất của ý thức thất bại, đồng nhất trong sự thất bại ném tung gỉa ngã xuống cỏ, một giấc ngủ không lo nghĩ, không tham vọng, không chấp nhặt vì tất cả đều thất bại, vì nhất tức nhất thiết, vì nhất thiết tức nhất, vì cỏ hoa cũng là tứ chi, vì nước mắt tha nhân cũng làm mình rướm máu, mình khóc bằng máu, thở bằng nhịp tim, ăn uống bằng nhật nguyệt, cưu mang sự đau khổ loài người trên mỗi sợi tóc, trong mỗi chân lông, trên mỗi tế bào, trên mỗi vó ngựa ý thức trong rừng rậm tịch mịch, vượt qua khỏi bờ Nhân Ngã, nhẩy vọt vào đồng nhất với đại đồng. Chỉ còn lại một vầng trăng giữa thiên thu, giữa rừng tóc bồng bềnh mây nổi. Vừng trăng là nụ cười, nụ cười là con mắt, con mắt tịch mịch nhiệm mầu, con mắt nuôi nấng hào quang, con mắt cửa ngõ vào đại thể, con mắt cuối cùng của một nhân sinh xao xuyến. Con mắt đó vẫn ngủ êm trong mỗi người. Đó là giấc ngủ thanh tịnh nhất. Giấc ngủ cuối cùng ra đi, ra đi cả sự ra đi; mọi dấu chân xoáy tròn làm tinh tú, mọi tinh tú nổ tung làm mọi cõi giới châu ngọc lưu ly. Một giấc ngủ Không Tịch, gối đầu, duỗi chân trên hai đỉnh tuyệt vô song.
Nụ cười của Phật Thích Ca là thông điệp của sự thất bại ý thức. Tất cả quyền uy điện ngọc, và lòng thương yêu rộng lớn và trí sáng suốt vô cùng, và lòng dũng cảm vô biên và nỗi đau nhức vô lượng của chúng sinh, những bước chân lênh đênh cầu giải thoát những đạo sư ngủ gật trong rừng tối siêu hình ... Tất cả những tương quan hiện tượng đó, tất cả những cung bực mê loạn đó đã đưa Phật đến cuối cùng của sự thất bại và nhẩy vọt vào Tự Tánh Không của vạn pháp, nổ tung mọi thức tướng sai biệt, dứt vọng niệm, thể nhập vào tạng tính chân như, cho cây trải hoa cúng dường, cho chim diễn bầy vi diệu, cho trùng trùng tạng kinh luận mở cửa treo trăng.
Ngã pháp đều không tự tánh, nên chỉ là giả lập, gỉa tướng, một phương tiện hư ngụy để vượt hư ngụy; một bè trúc xanh nổi nênh qua ngọn suối mây hồng.
Viết trong đêm đầu thu 1969
Pháp Vân Thiền Viện
HIỆN HÓA PHÁP
Thầy Quảng Trí
Mùa mưa năm nay lại về như một bầy câu trắng. Bầy chim mang theo những trái biếc; những cánh hoa và những rung động xào xạc. Trong cuộc đời chúng ta đã bao lần đuổi bầy mưa đi, gọi mây lớn về. Tâm hồn, mỗi kẻ đã biến đi mất hút bao nhiêu trận bão núi thổi tới, những xoáy gío hồng cuồng bạo, những cơn giông xanh nhẩy múa từ vách đá, từ đại dương, từ hốc sỏi, từ những ngọn cỏ, những cổ thư, những cửa hẹp, những đầu ngón tay, những suối mắt, những nụ cười, sợi tóc và kể cả những cơn mê loạn chính mình. Những cuộn gío dấy đất, rên xiết, hú hếu rồi mất hút tịnh yên trong một tâm giới không lặng. Trận bão nào cũng bắt đầu từ chính mình, và mất dấu từ chính mình. Những trận bão hằn lên thân thể như bao nhiêu đường roi xanh quận lại tâm thức như một ổ rắn lục. Tại sao chúng ta phải cưu mang ? Mỗi nét mi, mỗi nốt tay, mỗi nhành chân, mỗi lời nói và hơi thở, tôi thấy đều là rắn, đều là những mầm mống dấy động nổi loạn. Tại sao chúng ta không thả chúng xuống dòng sông ? Phải chăng chúng ta đã hoàn toàn bất lực, đã ung thối từ khi mới nở hoa, đã côi cút và bị tước đoạt bắt đầu từ một thức giới gỉa tưởng, đã mệt mỏi trên những bước thang hào quang bắc tới một thứ tuyệt đối hão huyền.
Trong mỗi chúng ta đều có sẵn những chốn ẩn trú, những cơn phố tịch liêu, những trạm ngựa ủ rũ, những ga sương tháng mười, những chợ khu âm động, những di chúc rầu rĩ còn ứ đọng trong máu huyết mỗi người. Chúng ta sống hoàn toàn bằng cái chết. Tất cả tử khí đó đã làm tê cứng gân máu chúng ta. Chúng ta chỉ còn lại một thứ xác khô canh giữ di ngôn trong ngôi cổ mộ thất lạc.
Tôi muốn ra đi tất cả, từ bỏ tất cả, như một lão đại hành khất, như một thiền sư vân thủy lang thang, như một con chuồn chuồn huyết dụ, như một vệt sao rơi, như một tia chớp giữa mộ đá tàn lụi. Tôi muốn ra đi khỏi những lời nói, những ý nghĩ, những tình cảm vụn vặt. Tôi muốn ra đi khỏi cả sự ra đi. Tôi muốn yêu mến thất bại để phá hủy mọi tham vọng. Tôi muốn sự từ khước cuối cùng đối với tất cả nơi trú quán siêu hình. Tôi muốn trở nên một tế bào reo ca trong cơ thể nhân loại. Tôi muốn đâm nổ con mắt, vì tất cả mọi bước chân sợ hãi đều bắt đầu từ con mắt. Tôi muốn ngả co dưới một lớp tuyết trắng. Tôi cũng thèm tư cách thản nhiên của vách núi. Tôi thèm cuộc rong chơi như nước xanh. Tôi muốn không còn mọi ước muốn. Nhưng tôi vẫn tìm kiếm trí khôn, quỉ biện, lảm nhảm ... Đó là mọi hiện tượng bạc nhược, hèn mọn nghiệp dĩ. Tôi vẫn lừa đảo mình trước cái chết bằng tất cả thành công và hạnh phúc bẩn tưởi. Tóm lại, tôi vẫn chuẩn bị cho sự nhắm mắt cuối cùng quá nhiều.
Tôi có thói quen tự nghĩ về mình. Trước đây ba mươi năm và lẻ một ngày, thì tôi chỉ là con tinh trùng nguyên sơ trong một môi trường trong suốt. Rồi, quán tưởng đến bẩy mươi năm sau, tôi lại nguyên vẹn còn một nắm xương mục giữa những rễ cây gặm mút chằng chịt, và bên trên một thảm cỏ xanh, những thiếu nữ đang vít cành, hái trái xương tủy tôi ăn thích thú. Từ nhãn quan này tôi trở nên yêu mến mọi người và tất cả đời sống đều trở nên khôi hài kỳ hoặc. Một lần, tôi đi xem cuộc đua ngựa, tôi chợt nổi cười nghiêng ngả: Tôi thấy gần hai chục con tinh trùng người cưỡi gần trên hai chục con tinh trùng ngựa phóng đua mãi miết, trước mấy trăm con tinh trùng đang hò hét và đánh cờ bạc; có con mặt hoa da phấn, có con đội mũ hút thuốc nghênh ngang. Ôi! Thật là khôi hài. Tôi lại chợt có ảo giác: chung quanh tôi, mấy trăm bộ xương trắng nhởn đang bầy cách gặm lẫn nhau. Ôi! Tôi muốn ù té chạy khỏi bãi chết ghê rợn này. Nhưng, tôi chợt nhận ra mình trong số đó, cũng chỉ là khung xương. Tôi chợt kinh tởm chính mình. Từ sự bắt đầu tạo dựng mỏng manh đến sự hủy phá cuối cùng bi thảm hiện đến trong tôi chưa đầy một hơi thở. Tôi chợt đứng ngoài dòng dịch hóa. Bên ngoài những hình thể gỉa tưởng và cảm thấy mình rỗng không tịch mịch; những cơn mây chiều dường như phiêu bạt trong tôi, như một đàn cá thu kéo về theo tiếng réo của trùng dương, khúc hát huyền bí của tâm thể.
Tất cả mọi khổ não đều bắt đầu từ ý thức. Sự giải phóng tối hậu phải là sự giải phóng con người ra khỏi gỉa ngã, và thiên chấp sai biệt. Con người vượt thoát hiện tượng giới tức là chuyển đổi tư tưởng giới, giải phóng mọi ràng buộc nô lệ, mọi định thức giáo điều, để bước vào ngưỡng cửa một tâm giới mới, an trụ ở vô trụ. Vô trụ mà thực ra dung hóa được toàn thể trở lực. Tôi cho rằng Hiện Hóa Pháp của người Việt hoàn toàn bỏ xa Biện Chứng pháp của Hégel; một thứ biện chứng duy lý, ngưng đọng dựa trên những đường xoáy ảo tưởng: một đầu là ngôi vị tối cao, một đầu là hư vô mở rộng. Hiện Hóa Pháp Việt Nam không dựa trên một định thức, một con đường nào, nên không chỗ bắt đầu và cũng không nơi cuối cùng, mà chỉ là cánh cửa mở tung nhận thức, đập tan mọi kiến chấp hư ngụy để đối mặt với thực tại ảo diệu, duyên khởi, toàn khắp và nhất như của dòng sống, "Khôn cũng chết, Dại cũng chết, Biết thì sống", "Khôn, Dại" là hai mặt của cuộc đời, là hai cực của tiêu chuẩn hành động, là hai vế của Nhị nguyên. "Cũng chết" là tự chuyển biến đắp đổi dung hóa lẫn nhau. "Biết thì sống" tức là vượt mâu thuẫn để điều ngự mâu thuẫn, nổ tung thiên chấp gỉa tướng, trực nhập dòng sinh hóa mênh mang, tan rữa mọi vực bờ Nhân Ngã, vắng lặng mọi tham vọng so đo, và dẫn đến Bình Đẳng Tánh Trí của muôn loài một vô môn quan dung thông Vô ngại. Đó là chìa khóa để mở cửa những bế tắc chiến tranh, là sinh mạch của nòi giống Việt: Hiếu hòa Hiếu sinh nhưng kiên cường tự chủ.
Mọi hình thái chiến tranh chỉ là chiến tranh của Quyền và Lợi. Mọi mê chấp Quyền và Lợi chỉ là sự sai lầm về nhận thức. Mọi kiến quan sai lầm chỉ là hậu quả của tâm bệnh bỏ quên bản chất và đánh mất thực tại. Vậy, đời sống lịch sử chỉ là một tiếp diễn đào thải và liên tục bắt đầu từ mỗi ý thức, mỗi cá nhân và mỗi thế hệ. Sự bắt đầu luôn luôn vươn tới sự tỉnh thức tự thân ra khỏi hang động ẩn trú của mọi nỗi sợ hãi, và lề thói trá ngụy trong một tinh thần dung hóa và sáng tạo truyền kiếp.
Tất cả mọi ngữ ngôn, mọi nhãn quan chỉ là không của hư Ngụy. Nó có thể đóng lại và cũng có thể mở toang vào Nhật Nguyệt. Chỉ khi nào không còn người nhìn ngắm Nhật Nguyệt và cũng không còn Nhật Nguyệt để nhìn ngắm, thì lúc đó không còn dụng tướng của cánh cửa và tâm thức trụ nhập với cỏ tím hoa vàng, đó là Nhập Pháp Thân Thường Trụ Như Lai.
Tôi viết những dòng chữ này thực cuồng lưu. Tôi tự biết mình đang nốc từng đấu nước biển để bốc lửa cơn khát. Những đấu nước có thể là máu, là nước mắt là mồ hôi của biển xanh. Tôi tự biết những dòng chữ bất lực và hư huyễn này không kêu gọi được gì trong cuộc chiến tranh VietNam và mọi réo gọi trong cuộc chiến hiện nay càng đẩy con người vào ngõ cụt đầy hoang mang và thù hận chồng chất. Viết đã là phản bội mình lẫn người đọc. Nên tôi muốn những dòng mực này, xin như những giọt nước, những gợn mây, những hơi gío thu thoang thoảng gợn nổi trăm ngàn con ốc trên da thịt hiu hiu. Nó sẽ tan biến trong một tâm thể sinh động và nổ tung sấm sét. Nó chỉ là ngọn cỏ nổi nênh dưới chân thiền sư vượt suối, không tạo nên một con đường nào vì những bước chân đã trở nên thừa thãi của kẻ trên đò.
Bây giờ nắng đã bắt đầu rực rỡ trên những cánh bướm vàng quẩn quanh những đóa hoa trắng thơm vừa nở trên thành cửa sổ. Cho tôi được dừng bút nơi đây trở về phật Viện, vác cuốc xuống vườn trồng cải xanh.
Viết tại thư viện Vạn Hạnh
cuối thu 1969
Tuệ Không
Phạm Thiên Thư
đại nguyện
Nguyễn Thị Minh
Trầm thơm quyện tỏa hồn mơ
Trà sen nhấp giọng ngâm thơ ngọc vàng
Mỗi dòng là ánh từ quang
Mỗi trang là khói chiên đàn thoảng xa
Mong sao mười cõi Ta Bà
Bao nhiêu cát sỏi trần sa trở mình
Kinh Ngọc là khối quang minh
Là đường cứu độ chúng sinh mọi loài
Nguyện cho khắp cõi trần ai
Tỉnh cơn ác mộng nở đài liên hoa
Trầm tư Thơ Ngọc, Đạo Ca
Mỗi người là một pháp tòa trí bi
Cảm tác khi đọc Kinh Ngọc
SaiGon ngày đầu xuân Tân Hợi
Bồ Tát Giới - Đức Minh
Nguyễn Thị Minh
với dòng Kinh Ngọc
trần thị tuệ mai
Trong miền cát bụi phiêu du
đã ngày mê mải, đã mùa trầm luân
mắt xanh ánh biếc phai dần
nhìn người kinh hãi, tưởng thân tật nguyền
mịt mờ khuôn mặt hoa niên
tóc chiêm bao rụng khô miền hỗn mang
e như xuân đất trời tàn
cây khô da thịt ngổn ngang rừng người
Chợt thơm hương phấn tuyệt vời
âm thanh Kinh Ngọc nở mười phương hoa
Thắp lên ánh sáng Đạo Ca
ngàn mùa xuân trước dựng mùa xuân nay
Rừng đời trổ lộc muôn cây
lòng đời chim hót ấm đầy tình thương
tóc chiêm bao mướt trầm hương
ôm bờ vai ngọt - vô thường - chân như ...
tặng bác phạm thiên thư
bùi giáng
chùa
chạy quanh khu vực thần tiên
mỏi chân mười ngón kết liên bốn mùa
vườn cây trái ngọt trái chua
mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên
cây mọc
Đạp thanh từ tiết phiêu bồng
Hỷ căn du hý thần không ngậm vành
cây trời mọc đất trút nhanh
giờ đi bên khắc đêm thanh loạn ngày
quận
Giây rừng rút động chiều trưa
góp sương châu quận về mưa thị thành
xa từ lũng tạ âm thanh
Tình vân nhứ mạo xuân xanh chiên đàn
Bùi Giáng
trụ vũ
vườn dâu
vườn dâu năm trước còn không
sớm nay nở với vừng đông một cành
chim linh hót tiếng vô thanh
quê hương ta hạt gieo lành nghìn năm
hoa mướp
hoa mướp tròn như trăng tháng tám
tròn như tâm của đức Mầu-Ni
gío khơi thổi động cành phơ phất
hoa mướp muôn đời chẳng nói chi
con kiến
sớm mai
mặt trời mọc
trong ánh sáng diệu huyền của tâm linh
trên cành xoài lá xanh đông phương
những con kiến hành hương
về ánh sáng
Tôi nghe nhất thể nhiệm mầu
khởi điệutình ca
Lê Nghị
giọt về
một mai
giang - tố quan - hà
nữa thác là sa giọt về
núi ầm đổ
ngọn triều khê
Cuộc chơi
thành Đá
Cuộc về thành không
VÀO CÕI KHÔNG TỊCH
Vũ Tài Lục
Gốc rễ tín ngưỡng Phật học là chữ "Không" (néant) Không chẳng phải là Vô (nothing) vì Vô là cái gì quay lưng lại với Hữu (something) cho nên chỉ là tương đối. Không mới thật là tuyệt đối.
Không của nhà Phật xuất phát từ kinh nghiệm sinh hoạt bản thân. Theo Phật thể chứng thì loài người mê lầm rất sợ hãi cảnh giới Không đó vì Không là nơi vô tình vô vật, tình cảm vật chất đều tiêu diệt. Bởi sợ cảnh giới Không nên cố bấu víu vào Tâm hoặc Vật để mong tìm ra niềm an ủi mỗi khi nghĩ đến khoảng khắc của phút lâm chung. Bởi mê lầm nên nhận Không ra Chết. Thật ra Chết mới là tình trạng giải thể của vật chất và tinh thần chứ chưa phải là tiêu diệt. Còn ở cảnh giới Không thì hết thẩy mọi cơ duyên cũng như bi khổ đều tan biến mất. Giác ngộ được ý nghĩa chân Không thì vẫn đứng ngang nhiên ở cõi đời mà siêu nhiên thoát tục.
Lặng ngồi xem cuộc bể dâu thay
Gío thu thổi gốc mai cầu nọ
Áng áng hoa vàng trước dậu bay
Kinh Kim Cương ghi những lời Phật giảng dẫn đường vào cảnh giới Không để phá bỏ những mê lầm về sự biện nhận cảnh giới này.
Tên kinh gồm tám chữ là: Kim Cương bát nhã ba la mật đa kinh. "Ba la mật" dịch âm của tiếng Phạn có nghĩa là "bờ bên kia" ý chỉ một việc đã viên mãn. "Bát nhã" là "trí tuệ". Kim Cương là tên một khoáng chất rất rắn, rất sắc, chất rắn sắc của nó nguyên lai vẫn đầy đủ không phải nhờ các vật khác rèn đúc, Phật lấy nó mà ví dụ như trí tuệ của người ta từ vô thủy ai ai cũng có khi thành bậc thánh nó cũng không thêm chút nào, lúc là phàm phu nó cũng không kém chút nào, nó đã không bị vô minh từ vô thủy làm chìm đắm, trái lại nó còn chiếu tỏ để phá tan cái vô minh, ý như gío quét mây bay, gío tan sương móc. Khi có đủ Kim Cương bát nhã thì người với pháp đều hết, sự với tướng đều không. Trong lời giảng Phật bảo ông Tư Bồ Đề rằng:
Bồ tát nên xa lìa hết thảy cái tướng hư vọng, phân biệt hòa hợp mà phát cái tâm vô thượng chính đẳng chính giác, không nên y trụ vào lục trần mà sinh lòng sai biệt, chỉ nên sinh cái tâm không trụ vào chỗ nào, nếu tâm còn có chỗ trụ, thì là vào chỗ điên đảo không phải là trụ vào bát nhã vậy. Đọc thấu đáo kinh Kim Cương là có thể thấu triệt chữ Không của Phật học, bởi thế kinh Kim Cương là một loại kinh ở bậc cao. Sư cụ Thiều Chửu một vị rất uyên bác Phật học khi dịch kinh này đã viết:
"Kinh này có nhiều nghĩa lắm, nguyên văn chữ Phạn dịch ra chữ Hán có đến sáu bản dịch khác nhau, các nhà chú giải thì có hàng mấy trăm nhà, hiện văn tự còn lưu lại thì cũng tới tám mươi hai nhà, mỗi nhà đều sở đắc một nghĩa đều có vẻ cao thâm huyền diệu cả, nhất là bộ Kim Cương huyền nghĩa của cụ Cát Tạng lại càng mênh mông bát ngát như trời như bể, bởi thế mà các Tổ xưa mới bảo rằng kinh này là kinh Vô lượng nghĩa, là kinh không thể lấy văn chữ, nói năng mà hình dung được. Các Tổ uyên bác là nhường nào mà còn kêu là khó, là không thể lấy văn chữ nói năng mà hình dung được thì tôi, tôi là một kẻ kém đức có bao giờ dám cầm bút mà dịch."
Nay khác hẳn với thái độ băn khoăn, khiêm tốn đến câu nệ của người thuộc thế hệ trước, thầy Phạm Thiên Thư táo bạo xông xáo vào kinh Kim Cương, chẳng phải chỉ để dịch mà thôi, Thư dám chuyển cả ý nghĩa bộ kinh này thành thơ rồi đặt cho một cái tên rất hay, rất thơ: Kinh Ngọc Qua Suối Mây Hồng. Phạm Thiên Thư đã thành công, cái thành công căn bản của Qua Suối Mây Hồng là phá bỏ sự ề à vẫn thường thấy trong các kinh sách với những câu "trầy vai áo chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng ..." hay "lại nữa ông Tu bồ đề này" hoặc "Như nay con hiểu ý của Phật nói thì" v.v... nghe dễ chán và bực mình.
Bằng những lời thơ êm dịu, Qua Suối Mây Hồng làm cho người đọc như tựa lưng dưới bóng hoa nghe hồi chuông tĩnh tâm của ngôi cổ tự mà lim dim ngủ; vào cõi Không Tịch thanh thoát như người tiều phu nào đó ngày xưa mải mê xem tiên đánh cờ dựa cái búa bên cạnh, lúc tan cuộc cờ nhìn lại thì cán búa đã mục.
Bằng lời thơ êm dịu, Phạm Thiên Thư đẩy nhẹ con thuyền trí tuệ lướt trên giòng kinh cho người đọc thoải mái thênh thang đi tới cảnh giới Không ở giữa rừng hoa tịch mặc tháng ngày thoáng tiếng suối thần rơi.
Đọc kinh Kim Cương người ta có thể đến hạnh bồ tát để xử sự với thế gian bằng thái độ trong nhiệt tình vẫn giữ niềm xa cách, ở vẻ nguội lạnh vẫn chan chứa ân tình.
Nào những ai đã nguội lòng giấc mộng oa tranh nhìn công danh như hạt nước đọng trên cánh hoa, phú quí như giọt sương bám trên ngọn cỏ, Hãy tìm đến giòng suối mát Kim Cương bát nhã
VŨ TÀI LỤC

Được bạn: dactung.com đưa lên
vào ngày: 10 tháng 11 năm 2011

Bình luận về Bài thơ "Qua Suối Mây Hồng - phụ lục"